Các ứng dụng Mô_hình_kinh_doanh

Malone et al.[17] đã tìm thấy một số mô hình kinh doanh, như đã định nghĩa, đã thực hiện tốt hơn các mô hình khác trong tập dữ liệu bao gồm các doanh nghiêp lớn nhất Hoa Kỳ, trong thời kỳ 1998 tới 2002, khi họ không chứng minh liệu sự tồn tại của mô hình kinh doanh là quan trọng.

Trong bối cảnh của phần mềm - Cluster, mà được tài trợ bởi Bộ Liên Bang Đức về giáo dục và nghiên cứu, một mô hình kinh doanh thành công cho các công ty phần mềm đã được phát triển. Nó hỗ trợ thiết kế và phân tích mô hình kinh doanh phần mềm. Khái niệm và các dữ liệu cơ bản của công cụ này đã được công bố trong các ấn phẩm khoa học khác nhau.

Khái niệm của mô hình kinh doanh đã được hợp tác trong tiêu chuẩn tính toán. Ví dụ, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards Board - IASB) sử dụng “mô hình kinh doanh thực để quản lý tài sản tài chính” như một yếu tố để quyết định liệu các tài sản nào có thể đo lường tại chi phí phân bổ hoặc tại giá trị hợp lý tại tiêu chuẩn tính toán công cụ tài chính, IFRS 9.[18][19][20][21] Trong đề xuất 2013 của họ cho tính toán công cụ tài chính, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế cũng công bố công dụng tương tự cho mô hình kinh doanh trong viêc phân loại các công cụ tài chính. Khái niệm của mô hình kinh doanh đã được giới thiệu trong thuế thu nhập hoãn lại dưới Các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế (International Financial Reporting Standards) với 2010 sửa đổi tới IAS 12 giải quyết trì hoãn thuế liên quan đến đầu tư bất động sản.[22].[23][24][25]

Cả hai IASB và FASB có đề xuất sử dụng khái niệm của mô hình kinh doanh trong khái niệm của báo cáo một thu nhập cho thuê của bên cho thuê và chi phí thuê trong dự án hợp tác của họ trên tính toán cho người thuê.[26][27][28][29][30] Trong mô hình kế toán cho thuê 2016, IFRS 16, IASB chọn không bao gồm một yếu tố của “ tiện ích chuẩn một mình” trong định nghĩa cho thuê bởi vì “thưc thể các thể đạt được các kết luận khác nhau trong hợp đồng mà bao gồm các quyền giống nhau dề sử dụng, dựa trên sự khác biệt giữa nguồn lực khách hàng hoặc mô hình kinh doanh của bên cung ứng [31] Khái niệm cũng đề xuất như là một cách tiếp cận để quyết định cách đo lường và phân loại khi tính toán hợp đồng bảo hiểm.[32][33] Kết quả đưa lại là tình trạng tăng lên của các khải niệm mô hình kinh doanh đã nhận được trong bối rảnh của báo cáo tài chính, Nhóm tư vấn báo cáo tài chính Châu u (European Financial Reporting Advisory Group - EFRAG), mà khuyên liên minh châu Âu trong chứng thực các chuẩn mực báo cáo tài chính, bắt đầu một sự án trong “ Vai trò của các mô hình kinh doanh trong báo cáo tài chính” vào năm 2011..[34]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mô_hình_kinh_doanh http://www.hec.unil.ch/aosterwa/PhD/Osterwalder_Ph... http://www.budgettravel.com/bt-dyn/content/article... http://www.cfo.com/article.cfm/14455415/c_14455495... http://www.deloitte.com/view/en_NZ/nz/services/aud... http://www.ey.com/LU/en/Newsroom/PR-activities/Art... http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/Supplemen... http://www.iasplus.com/iasplus/1101amendtoias12.pd... http://www.marketwatch.com/story/what-twitter-know... http://www.pwc.com/gx/en/insurance/IFRS/assets/FAS... http://riverpublishers.com/journal/journal_article...